Dự án thép gian nan tìm nguồn cung cấp quặng
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), năm 2009, lượng phôi tự sản xuất trong nước là 2,6 triệu tấn và lượng phôi cần nhập khẩu là khoảng 2,2 triệu tấn nữa. Với lượng phôi sản xuất trong nước chiếm hơn 60% phôi cho cán thép, có thể nói ngành thép đang dần dần chủ động hơn trong sản xuất. Tuy nhiên, nguồn quặng cho các nhà máy thép vẫn còn là bài toán chưa có đủ lời giải.
Tìm quặng: Khó tránh manh mún
Dự án sản xuất phôi của Công ty Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 1 đã đi vào hoạt động có công suất 230.000 tấn gang lỏng, tương đương với hơn 400.000 tấn quặng tốt mỗi năm. Chủ đầu tư khá yên tâm với nguồn quặng có sẵn ở hai mỏ Trại Cau (Thái Nguyên) và Ngườm Cháng (Cao Bằng). Trong giai đoạn 2, khi nâng công suất lên 500.000 tấn gang lỏng/năm, tương đương với 1 triệu tấn quặng/năm, nguồn cung cấp quặng cho dự án cũng đã được quy hoạch sẵn với mỏ quặng Tiến Bộ (Thái Nguyên).
Nhưng không nhiều dự án làm phôi có được lợi thế mỏ lớn, đã được quy hoạch sẵn như thế này. Dự án Nhà máy Gang thép Đông Á công suất 300.000 tấn/năm tại Đông Triều (Quảng Ninh) đã phải ngừng hoạt động một lò cao sau 1 tháng, bởi thiếu nguyên liệu. Do xuất phát điểm dùng nguyên liệu là quặng thu gom trong nước nên khi chính sách “cấm xuất quặng sang tỉnh khác” của nhiều địa phương được áp dụng, nhà máy này đã phải ngưng vận hành.
“Cấm vận” cũng là chuyện vẫn đang diễn ra ở các địa phương khác có quặng sắt như Bắc Kạn, Thái Nguyên hay Thanh Hóa từ cách đây 3 năm. Chính sách này đã được nhiều địa phương có trữ lượng quặng sắt không nhiều áp dụng với kỳ vọng có thể gia tăng được giá trị sản xuất công nghiệp của địa phương.
Tuy nhiên, “điều này đã làm cho hiệu qủa sử dụng tài nguyên bị hạn chế, đời dự án rất ngắn, không khắc phục được tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và dẫn tới tính cạnh tranh của sản phẩm kém”, ông Nguyễn Văn Thắng, chuyên viên của Bộ Công Thương - người có kinh nghiệm theo dõi ngành thép khoảng 15 năm nay nhận xét.
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra!
Nhưng muốn có nguồn quặng ổn định thì phải được cấp mỏ. Quyền cấp các mỏ không thuộc Quy hoạch phân vùng khai thác quặng sắt do trung ương quản lý, mà của các địa phương. Các chuyên gia cho hay, các mỏ thuộc thẩm quyền cấp phép của địa phương không hoàn toàn là những mỏ có quy mô nhỏ. Đơn cử như tỉnh Yên Bái, toàn bộ các điểm mỏ có trữ lượng tới 30 triệu tấn, một số điểm mỏ ở các địa phương khác cũng có trữ lượng 4 - 5 triệu tấn.
Tuy nhiên, các mỏ mà địa phương được quyền cấp phép thường nằm ở những vùng sâu, vùng xa, việc đầu tư khai thác với quy mô công nghiệp là không hiệu quả, chưa kể tới vấn đề đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đường sá để thuận tiện đi lại.
Mâu thuẫn này cũng khiến cho tại không ít địa phương, chủ đầu tư đã “vẽ” ra những dự án be bé, xinh xinh để vừa lòng địa phương và giữ chỗ. Cao Bằng là một ví dụ. Có 20 mỏ với tổng trữ lượng khoảng 60 triệu tấn quặng sắt nên trong định hướng phát triển giai đoạn 2006 - 2010 của tỉnh Cao Bằng thì khai thác và chế biến khoáng sản là ngành đầu tiên được đề cập tới.
Có tới 12 dự án trong lĩnh vực gang thép được đưa ra để kêu gọi đầu tư. Trong số các dự án này, có những dự án thép có quy mô sản xuất tới 500.000 tấn/năm, nhưng cũng có những dự án luyện gang có quy mô khoảng 30.000 tấn/năm hay sản xuất ferro (hợp kim của thép) chỉ có quy mô rất khiêm tốn với 4.000 - 5.000 tấn/năm.
Một doanh nghiệp đang đầu tư vào lĩnh vực gang thép ở Cao Bằng cho hay, với chính sách không cho xuất khẩu quặng ra khỏi địa phương, doanh nghiệp buộc phải đầu tư vào sản xuất gang, thép tại đây, dù đường sá, cơ sở hạ tầng đều thiếu thốn.
Nhưng dù cho cơ sở hạ tầng chưa thuận lợi thì tất cả các điểm mỏ ở Cao Bằng đều đã có chủ. Tại các địa phương có mỏ, việc xác định chủ quyền cho các mỏ thuộc quyền mình quản lý được thực hiện với một tốc độ nhanh đáng kinh ngạc, cho dù số lượng doanh nghiệp được cấp mỏ thì nhiều mà số triển khai được chả là bao.
Câu chuyện có những doanh nghiệp tên tuổi trong làng thép, dù đi tới các địa phương rất sớm để tìm mỏ nhưng tới giờ này vẫn trắng tay, ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp địa phương lại “có tên, có chủ quyền” hay chuyện công ty này chuyển nhượng quyền khai thác mỏ cho công ty kia với số tiền đáng nể lan truyền trong giới làm thép có lẽ lý giải được phần nào những hiện tượng nêu trên.
Không tìm được quặng trong nước thì đi tìm ở nước ngoài như Lào cũng là một hướng đi được một số doanh nghiệp Việt Nam triển khai. Tuy nhiên, đi nhiều, xin được không ít nhưng triển khai khai thác mỏ lại không dễ.
“Bên cạnh những tính toán hiệu quả về chi phí đầu tư dự án thì còn những vướng mắc khác mà doanh nghiệp không thông tỏ như khi đầu tư xin mỏ ở trong nước”, là nhận xét của nhiều doanh nghiệp đi tìm mỏ ở nước ngoài. Xem ra cái vòng luẩn quẩn trong việc tạo ra một năng lực lớn đủ sức cạnh tranh bền vững cả về giá và các yếu tố môi trường với hàng nhập khẩu vẫn đang là trăn trở lớn của ngành thép.