DN không nên ký hợp đồng đơn giản, không có điều khoản đảm bảo thực hiện hợp đồng, điều khoản giải quyết tranh chấp. Đã có trường hợp Công ty X của Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu cá ngừ cho Công ty Y của UAE với điều khoản giao hàng là Công ty X giao hàng trước ngày 30/5/2012, Công ty Y thanh toán trước 10% giá trị hợp đồng, 90% giá trị còn lại trả nốt khi Công ty X gửi fax hoặc e-mail bộ chứng từ gửi hàng gốc. Sau khi Công ty Y thanh toán 10% giá trị hợp đồng, Công ty X tiến hành thu mua nguyên liệu và chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu, chuẩn bị giao hàng vào thời hạn trong hợp đồng. Tuy nhiên, ngay sau đó, Công ty Y thông báo không thể thực hiện theo hợp đồng đã ký. Do đã chuẩn bị nguồn hàng, nay không giao hàng được cho Công ty Y, Công ty X đã chịu thiệt hại do phải bán hàng giá rẻ cho một bên mua khác.
Trường hợp này, hình thức hợp đồng ký giữa hai bên là proforma invoice, chỉ gồm các điều kiện đơn giản liên quan đến hàng hóa (khối lượng, giá cả, giá tiền, đóng gói), vận chuyển (ngày giao hàng lên tàu, chuyển tải được phép), thanh toán (10% trả trước, 90% còn lại thanh toán khi bên mua nhận được scan chứng từ gửi hàng gốc)… Nên khi bên mua không tiếp tục thực hiện hợp đồng dù đã đưa trước 10%, bên bán vẫn chịu thiệt thòi.
Cũng đã có trường hợp giao hàng không tuân thủ quy định quản lý nhập khẩu của nước sở tại nên hàng bị cơ quan chức năng từ chối tại cảng đến. Đơn cử, Công ty X của Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu cá ngừ cho Công ty Y của UAE. Mọi giao dịch thông qua một Công ty Z tại Ấn Độ. UAE có quy định cụ thể và nghiêm ngặt về nhãn mác, bao gói sản phẩm thực phẩm, thủy sản nhập khẩu. Tuy nhiên, Công ty X đã không biết hoặc không quan tâm đúng mức đến quy định này. Công ty trung gian tại Ấn Độ cũng không đề cập đến quy định nhãn mác của UAE và đã đồng ý để Công ty X giao hàng sang UAE. Khi hàng đến cảng UAE đã bị cơ quan chức năng giữ lại và không cho phép thông quan. Hiện nay, Công ty X đang phải tìm cách để đưa hàng trở lại Việt Nam.
Cũng đã xảy ra trường hợp hậu thuẫn không lành mạnh của ngân hàng UAE đối với DN Việt Nam nhằm ép giá. Một Công ty X của Việt Nam giao hàng sang UAE, sử dụng phương thức thanh toán L/C trả ngay. Tuy nhiên, khi bộ chứng từ được chuyển cho ngân hàng tại UAE, ngân hàng này trả lại toàn bộ chứng từ, không chấp nhận thanh toán với lý do bên mua không đồng ý nhận hàng.
Ngược lại, có trường hợp chính DN Việt Nam không nắm rõ quy định nhập hàng của nước mình khiến lô hàng nhập từ UAE không được thông quan. Đơn cử, một Công ty X của Việt Nam nhập khẩu mặt hàng trà túi lọc Ahmad của UAE. Khi hàng về đến cảng tại Việt Nam đã không được các cơ quan chức năng cho thông quan. Nguyên nhân là Công ty X không nắm vững và cập nhật quy định luật pháp liên quan đến quản lý nhập khẩu mặt hàng thực phẩm vào Việt Nam, không tham khảo, tìm hiểu thông tin trước về mặt hàng mình định nhập khẩu.
Theo thông tư số 13/2011/TT-BNNPTNT ban hành ngày 16/3/2011, có hiệu lực từ ngày 1/7/2011, hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập khẩu vào Việt Nam phải được sản xuất tại quốc gia được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam công nhận đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về bảo đảm an toàn thực phẩm hàng hóa theo quy định của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền về an toàn thực phẩm. Đối với hàng hóa có nguồn gốc thực vật của nước xuất khẩu phải đăng ký với Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản Việt Nam (Nafiqad). Trường hợp trên mặt hàng trà túi lọc Ahmad sản xuất tại UAE có khả năng rơi vào phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 13 và UAE không nằm trong danh sách 16 quốc gia đã đăng ký và được công nhận.
Vì vậy, Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á - Bộ Công Thương đề nghị các DN khi lập hợp đồng với đối tác UAE nên tham khảo hợp đồng mẫu của ITC đối với mua bán hàng hóa quốc tế (được in trong cuốn “Mẫu hợp đồng thương mại dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Chỉ dẫn đối với hoạt động thương mại quốc tế” do VCCI phối hợp với ITC và Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ phát hành). Bộ Công Thương cũng đề nghị các DN Việt Nam nên tìm hiểu kỹ đối tác, các quy định quản lý nhập khẩu của cả UAE và Việt Nam, nâng cao nghiệp vụ giao dịch, nghiệp vụ ngoại thương, nhất là cẩn thận trong khâu dự thảo, đàm phán và ký hợp đồng để tránh các hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
UAE đang là thị trường lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Tây Á với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 303 triệu USD trong năm 2012. Hai tháng đầu năm 2013, xuất khẩu sang thị trường này đã đạt 545,46 triệu USD, tăng mạnh 156% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện nay, chính sách ngoại thương của UAE rất cởi mở, kiểm soát đơn giản, đặc biệt không có hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đây là những điều kiện thuận lợi cho DN Việt Nam. Tuy nhiên, để xuất khẩu hiệu quả, có chỗ đứng tại thị trường này, DN Việt Nam nên tìm kiếm và hợp tác lâu dài với những đại lý, những nhà phân phối tại quốc gia này, bởi đây mới là con đường nhanh nhất để hàng Việt Nam đến tay người dùng tại UAE.