Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Trục kinh tế biển hùng mạnh
Để tăng trưởng nền kinh tế, các nước phát triển đã lợi dụng triệt để và ra sức phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của biển như: Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Singapore và Trung Quốc. Nhận thức rõ vai trò tối hậu của kinh tế biển, từ lâu Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã rất quan tâm đến phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và hải đảo, đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Một trục kinh tế biển hùng mạnh
Trên cơ sở phân tích xu thế phát triển về kinh tế biển và sự thích ứng về chiến lược nêu trên, mùa xuân năm 1992, các nhà khoa học vật lý Hải dương, công trình biển và thềm lục địa thuộc Phân viện Khoa học Việt Nam tại TP.HCM đã quyết định một chương trình nghiên cứu các điều kiện tự nhiên cùng các điều kiện kinh tế xã hội và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về địa lý kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng nhằm tìm kiếm, lựa chọn các vị trí có thể xây dựng được cảng biển nước sâu và khu công nghiệp dọc duyên hải miền Trung bao gồm các cửa biển: Quy Nhơn, Đề Gi, An Dũ, Tam Quan (Bình Định); Sa Huỳnh, Trà Cầu, Cửa Đại, vịnh Dung Quất (Quảng Ngãi); Kỳ Hà, vịnh Đà Nẵng (Quảng Nam) và Chân Mây (Thừa Thiên – Huế). Sau khi phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu, đã lựa chọn được 3 địa điểm hội tụ đủ điều kiện để xây dựng cảng biển nước sâu và khu công nghiệp, thương mại, du lịch dịch vụ đó là: Dung Quất (đông bắc Quảng Ngãi), Chân Mây (đông nam Thừa Thiên – Huế), Nhơn Hội (Bình Định).
Các kết quả nghiên cứu và đề xuất trên đã được Đảng và Nhà nước phê duyệt và ra các quyết định quan trọng có tác động to lớn lâu dài đối với lịch sử phát triển kinh tế xã hội của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước.
Mùa thu năm 1994, với sự phê duyệt Dự án cảng biển nước sâu và khu công nghiệp Dung Quất đã dẫn đến sự ra đời Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung kéo dài từ Liên Chiểu (Quảng Nam – Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng Ngãi) và hình thành trục phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ dọc theo vùng duyên hải kéo dài từ Đà Nẵng đến Dung Quất cùng với đường quốc lộ 24 và 14 nối Tiểu vùng sông Mê Kông.
Mùa xuân năm 1996 với sự phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và khu công nghiệp, thương mại, du lịch dịch vụ Chân Mây đã dẫn đến sự phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung ra đến Thừa Thiên – Huế và mùa thu năm 2004 với sự phê duyệt dự án cảng biển nước sâu và khu kinh tế Nhơn Hội đã dẫn đến sự mở rộng Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung về phía Nam đến Bình Định (đường 19).
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với diện tích 27.884km2, dân số khoảng 6,2 triệu người (năm 2006) và dự báo đến 2025 là 8,15 triệu người, với chuỗi đô thị đang phát triển nằm trải dài trên 558km bờ biển đó là Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn và các khu kinh tế lớn như: Chân Mây – Lăng Cô, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội. Vùng trọng điểm kinh tế miền Trung có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng về địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Là mặt tiền của cả nước, tiểu vùng sông Mekong và châu Á – Thái Bình Dương. Từ đây, có thể nối với các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar và xa hơn nữa là các nước Nam Á và Tây Nam Trung Quốc qua các trục hành lang Đông – Tây, đường 9, đường 14, đường 24, đường 19. Đi ra thế giới bằng hệ thống các cảng biển nước sâu: Chân Mây, Tiên Sa, Kỳ Hà, Dung Quất, Nhơn Hội và hệ thống các cảng hàng không Phú Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phù Cát. Là vùng có trục hạ tầng lớn của đất nước: đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt xuyên Việt, đường điện 500 kV, đường cáp quang và vi ba xuyên quốc gia, là khu vực có 13 trường đại học, 4 di sản văn hoá thế giới đó là cố đô Huế, Hội An, Mỹ Sơn, và văn hóa phi vật thể Nhã nhạc cung đình Huế.
Trong khoảng thời gian 18 năm qua, sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực này đã có bước đột phá lớn chưa từng có trong lịch sử. Từ chỗ vốn đầu tư vài chục triệu USD (năm 1990) đến nay vốn đầu tư đã lên đến vài chục tỷ USD (tăng lên 1000 lần). Từ một vùng non nước nghèo nàn với ngành nông nghiệp nhỏ bé lạc hậu, ngày nay khu vực này đã nhanh chóng hình thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của đất nước. Với hệ thống cảng biển nước sâu, hệ thống các khu kinh tế đa ngành mà trong đó xương sống của nó là một nền đại công nghiệp quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đó là: công nghiệp lọc hóa dầu, công nghiệp luyện cán thép, công nghiệp đóng tàu, công nghiệp chế tạo máy công cụ, công nghiệp nhiệt điện và thủy điện, công nghiệp sản xuất ôtô, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp phụ trợ và các ngành công nghiệp nhẹ khác. Chỉ tính riêng khu kinh tế Dung Quất, dự kiến đến năm 2025 vốn đầu tư lên đến 30 tỷ USD, khu lọc hóa dầu sẽ được mở rộng với công suất 15 triệu tấn/năm, sản xuất thép 5 triệu tấn/năm…
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với con đường di sản và thiên nhiên tuyệt đẹp, đã và đang đóng vai trò quan trọng trong hệ thống du lịch của đất nước. Sự bùng nổ về phát triển kinh tế ở miền Trung đã từng bước đem lại sự đổi mới đi lên cho vùng đất nghèo khổ này. Điều đó có thể thấy cụ thể như ở Quảng Ngãi từ chỗ ngân sách của tỉnh chỉ có xấp xỉ 160 tỷ đồng, giờ đây Quảng Ngãi đã bước vào câu lạc bộ 2000 tỷ và sẽ còn tiến xa hơn.
Có thể thấy Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được hình thành từ lĩnh vực kinh tế biển và đang từng bước trở thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của miền Trung – Tây Nguyên và cả nước.
Cùng liên kết trên con đường phát triển
Trải qua hơn một thập kỷ hình thành Vùng kinh tế miền Trung, sự phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương trong vùng đã khẳng định dần thế mạnh và khả năng liên kết với các địa phương khác. Nhìn vào thế mạnh của từng địa phương có thể thấy không hoàn toàn giống nhau mà có sự khác biệt mang tính đặc thù. Cho nên cần tìm một cơ chế và cách giải quyết để vượt qua rào cản về tâm lý địa phương và địa giới hành chính. Để làm được việc đó đòi hỏi các nhà quản lý phải làm việc với tinh thần của một người lính trên mặt trận phát triển kinh tế, xã hội. Theo đó, sự liên kết của các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là rất rõ nét và hoàn toàn thực hiện được.
Đó là: Giữa Huế và Đà Nẵng có thể liên kết trong việc đào tạo nguồn nhân lực gồm đội ngũ chuyên gia khoa học kỹ thuật cao cấp và công nhân có tay nghề cao nhằm cung cấp cho toàn Vùng trọng điểm kinh tế miền Trung và cả nước. Sự phối hợp giữa cảng Đà Nẵng và cảng Chân Mây để hình thành một trung tâm chế biến thương mại và thương mại quốc tế đối với các nước tiểu vùng sông Mekong và khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đà Nẵng và Huế là khu vực có nhiều tiềm lực để xây dựng và phát triển nền công nghiệp phụ trợ cho miền Trung và cả nước. Ngành công nghiệp phụ trợ có tầm quan trọng đặc biệt trong việc tạo giá trị gia tăng cho các ngành sản xuất công nghiệp, đặc biệt với các khu công nghiệp lớn ở vùng trọng điểm kinh tế miền Trung và cả nước. Nếu không xây dựng và phát triển được ngành công nghiệp phụ trợ thì các ngành sản xuất công nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn và chậm phát triển. Giữa Huế - Đà Nẵng và Quảng Nam sẽ hình thành một khu du lịch và dịch vụ lớn của miền Trung và cả nước trên cơ sở triển khai con đường di sản cùng với thiên đường Hải Vân – Chân Mây – Lăng Cô – Bạch Mã. Quá trình liên kết và phát triển sẽ dẫn đến hình thành thành phố sinh đôi Huế - Đà Nẵng làm trung tâm văn hóa, khoa học công nghệ cho toàn miền Trung – Tây Nguyên.
Con đường hợp tác và phát triển nêu ra trên đây của Huế - Đà Nẵng sẽ đem lại sức sống và là chỗ dựa cơ bản cho các khu kinh tế tổng hợp, đa ngành, đó là Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội đóng vai trò nòng cốt trong việc phát triển một nền đại công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Sự liên kết giữa Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội sẽ được hình thành trên cơ sở liên kết cụm ngành: sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo máy, đóng tàu, vận tải biển, sản xuất thép, chế biến nông lâm, thủy, hải sản. Với sự thành công và đi trước một bước, Dung Quất có thể tạo mối liên kết về lọc hóa dầu, vật liệu xây dựng, luyện thép với Nghi Sơn, Vũng Áng, Hòn La. Sự liên kết này xuất hiện trên nhiều mặt như: thương hiệu, sản phẩm, kỹ thuật, thị trường… sự liên kết cụm ngành sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhiều thông tin hiểu biết về sản xuất, kỹ thuật, thị trường dẫn đến thúc đẩy việc tăng năng suất và phát huy được nhiều sáng kiến, sáng chế không ngừng. Trên con đường phát triển của mình, các khu vực Đông Bắc Campuchia, Đông Bắc Thái Lan, Nam Lào, Mianmar… sẽ cần nhiều các sản phẩm dầu khí, sắt thép, vật liệu xây dựng, máy móc, thiết bị, phân bón từ Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời các khu vực trên cần xuất các sản phẩm nông, lâm, thổ sản, vật liệu, khai khoáng, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ qua các hải cảng Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Qui Nhơn, Nhơn Hội.
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với vị trí địa lý chiến lược đặc biệt quan trọng đã và đang bước vào thời kì phát triển mạnh mẽ của mình. Được hình thành trên lĩnh vực kinh tế biển, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đang ngày càng có tác động lớn đến sự phát triển của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước, trở thành đối tác quan trọng đối với sự phát triển của Tiểu vùng sông Mekong, đồng thời đang trở thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của Việt Nam.
Kinh tế biển là lĩnh vực hết sức rộng lớn bao trùm trên nhiều mặt như: giao lưu thương mại, đầu tư kinh tế kỹ thuật, sự ra đời hình thành các khu đại công nghiệp, đặc khu kinh tế, các chuỗi đô thị, hệ thống cảng biển, hệ thống dịch vụ, du lịch, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hệ thống công trình an ninh quốc phòng, hệ thống công trình biển và thềm lục địa, khai thác khoáng sản, dầu khí, công nghiệp khai thác và chế biến hải sản. Biển tác động đến khí hậu và ảnh hưởng lớn đến mùa màng nông, lâm nghiệp… và còn nhiều lĩnh vực khác. Sự hình thành các lĩnh vực kinh tế biển sẽ dẫn đến sự hình thành tiếp theo của khoa học kỹ thuật, dịch vụ, tài chính ngân hàng… và dẫn đến sự biến đổi to lớn về mặt đời sống xã hội… |