Kích cầu, kích vào đâu?
Tại sao cầu lại giảm
Có hai lý do để cầu giảm. Thứ nhất, trực tiếp nhất trong giai đoạn hiện nay là nền kinh tế thế giới suy thoái nặng, có thể kéo dài ít nhất là 18 tháng. Nhưng vì nạn thất nghiệp ở Mỹ hiện nay quá nặng (có đến hơn 2,5 triệu người mất việc trong vòng 5 tháng qua), chu kỳ đi xuống này mà dừng lại được vào giữa năm 2010 là may. Tôi chỉ dựa theo kinh nghiệm chu kỳ kinh tế của Mỹ trong quá khứ để đoán, chứ không dùng mô hình dự báo nào cả. Theo kinh nghiệm của tôi, các mô hình hoàn toàn không có khả năng dự báo chu kỳ kinh tế.
Thứ hai, các chính sách kinh tế thực hiện cho đến gần đây ở Việt Nam có thể nói là không còn hợp thời nữa. Tại sao? Đầu tư đã lên trên 40% GDP (có thể là 43% năm 2008), thuộc lại cao nhất thế giới trong giai đoạn này và trong lịch sử kinh tế thế giới, nhưng tốc độ tăng GDP lại thuộc loại tầm tầm và bây giờ đang giảm nhanh chóng, chỉ còn 6,2%. Bởi lẽ đầu tư chủ yếu vào những nơi thiếu hiệu quả và tham nhũng : đó là vào các doanh nghiệp và tập đoàn quốc doanh. Đầu tư nhiều như thế mà cũng không tạo ra công ăn việc làm. Thậm chí lao động trong khu vực này đã và đang giảm.
Thí dụ lao động trong công nghiệp chế biến (ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển hiện nay) trong khu vực nhà nước giảm 150.000 người trong thời gian 2003-2007; xây dựng giảm 128.000. Nhà nước đầu tư rất nhiều vào hai khu vực này nhưng lại không tạo ra việc làm (theo số liệu Thống kê của TCTK, đọc tại đây). Lao động trong các tập đoàn cũng giảm.
Chính vì đầu tư quá trớn, bơm tín dụng quá trớn, không biết cách xử lý tiền vốn từ nước ngoài đổ vào, mà lạm phát trở nên phi mã. Nhờ có việc cắt giảm đầu tư vừa qua, lạm phát mới dừng lại.
Vậy cần làm gì
Nói đến kích cầu bằng cách tăng đầu tư là chuyện buồn cười trong giai đoạn này, trong đó có kích cầu bằng cách xây dựng nhà ở rẻ tiền cho công nhân. Lý do đơn giản là họ không có tiền để mua. Hơn nữa, xây nhà cần có thời gian, và lại phải giải quyết các vấn đề khác như ai được phép mua/thuê nhà, và có sự bảo đảm rằng tiền không rơi vào túi đại gia và nhà không sụp sau khi xây một thời gian ngắn vì bớt xén.
Kích cầu bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp hay cho họ vay tín dụng với lãi suất bù lỗ của nhà nước cũng cơ bản không giải quyết được vấn đề vì vấn đề của họ hiện nay là không bán được hàng (đặc biệt là hàng xuất khẩu) để thu vốn về tiếp tục sản xuất. Cho dù có tín dụng để tiếp tục sản xuất, họ sẽ bán hàng cho ai? Tất nhiên nếu tăng sức mua của dân nghèo thì có thể tăng cầu những hàng hóa không dành cho xuất khẩu.
Như đã giải thích ở trên về lý do giảm cầu, đây cũng là chỗ để kích cầu.
Thứ nhất, cần tăng phụ cấp đặc biệt cho công nhân viên nhà nước (thí dụ trả lương 12 tháng cộng vài tháng thêm; lương thêm vài tháng chỉ mang tính giai đoạn cho đến khi nền kinh tế trở lại bình thường). Tăng chi tiêu của công nhân viên nhà nước có thể sẽ tạo được lực đẩy cho sức cầu hàng trong nước.
Thứ hai, phá giá đồng bạc. Đồng bạc hiện nay đã lên giá khoảng ít ra là 30-40% so với năm 2004, chủ yếu vì lạm phát và vì chính sách neo giá đồng bạc vào USD. Phá giá có thể là chính sách quan trọng nhất, bởi vì nó sẽ đẩy mạnh xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Ít nhất cũng là làm giảm nhập khẩu. Xuất khẩu đã giảm qua từng tháng, từ cao điểm trên 6 tỷ USD xuống 5 tỷ USD vào cuối năm 2008 và sẽ còn tiếp tục xuống nếu không có biện pháp này. Trong thời gian qua, nhập khẩu đã giảm, theo tôi nghĩ, là vì Chính phủ áp dụng các biện pháp hành chính.
Nhập siêu cả năm 2008 là 17 tỷ USD, trên 20% GDP, tức là tiếp tục duy trì tỷ lệ gần 20% GDP của năm 2007. Không một nước nào có thể kéo dài được tình trạng này.
Trước đây, khi khủng hoảng xảy ra ở Thái Lan hay Mexico, nhập siêu của hai nước này cũng không hơn 8% GDP.
Phá giá là điều cơ bản để giải quyết vấn đề nhập siêu và để kích cầu. Tất nhiên sẽ có người lo sợ lạm phát, nhưng tôi thấy nếu như cân bằng được xuất và nhập khẩu thì điều này sẽ khó xảy ra, đặc biệt là trong tình hình hàng hóa thế giới khó tăng giá trong năm 2009 này. Nhưng có hai việc cần giải quyết. Thứ nhất, sự khó khăn trong trả nợ nước ngoài của những tập đoàn vay mượn quá nhiều (họ phải trả bằng tiền Việt nhiều hơn trước). Tuy vậy, đây lại là các món nợ nhà nước phải gánh vác chứ không phải dân và, do đó, sẽ góp phần làm đẹp thêm cho nền kinh tế nếu như nhà nước cắt giảm chi phí đầu tư cho các tập đoàn. Nói chung là không tăng thêm thiếu hụt ngân sách nhà nước, là cắt đầu tư của doanh nghiệp và tập đoàn nhà nước chuyển sang các chi tiêu kích cầu.
Và như vậy cần có một hành động thứ hai: Quốc hội không thể cho phép nhà nước in tiền thoải mái để giải quyết việc trả nợ của các tập đoàn, nguyên nhân gây ra lạm phát.